Một mùa an cư, sau khi mãn hạ, Ðức Thế Tôn du
hành một mình thăm viếng các trú xứ của những Tỳ kheo, để biết lối sống của họ,
việc tu hành tiến thoái của họ. Chính nhân những cuộc du hành này mà đã có lần
Ngài tâm sự với thị giả Nàgita :
- Này Nàgita, mỗi khi đi ngang một làng
mạc mà thấy một am cốc của Tỳ kheo, thì dù vị ấy đang ráo riết thiền tọa, Như
Lai vẫn không hài lòng về trú xứ của vi ấy. Vì Sao? Vì vị ấy có thể bị phụ nữ,
trẻ con, người lớn trong làng đến phiền nhiễu, tán chuyện, làm cho vị ấy không
thể chứng đắc những pháp chưa chứng và có thể thối thất những pháp đã chứng.
Trái lại mỗi khi trông thấy một vị Tỳ kheo ở trong rừng, dưới gốc cây, thì dù
vị ấy đang tựa gốc cây mà ngủ gục, Như Lai vẫn hài lòng, nghĩ rằng: Tỳ kheo này
sau khi hết cơn buồn ngủ, có thể tiếp tục tọa thiền không bị ai quấy rối. Y sẽ
chứng đắc những pháp chưa chứng đắc.
Trong cuộc du hành chúng ta đang nói đến, khi
Ðức Thế Tôn đi ngang một làng nọ thì trời đã sẩm tối. Ngài ghé vào một nhà thợ
gốm xin trú ngụ. Không một ai biết đấy là đấng giác ngộ, vì Ngài làm như một vị
tỳ kheo thông thường giản dị, không có tùy tùng thị giả. Ngài ngỏ lời với thợ
gốm:
- Này thợ gốm, tôi có thể nghỉ lại nhà
người một đêm không?
Thợ gốm nhìn Ngài đáp:
- Sa môn muốn ở lại cũng được, nhưng đã
có một vị xuất gia đến trước cũng đang nghỉ tại đây. Xin hiền giả hãy ngỏ lời
với vị ấy, nếu ông ta đồng ý thì hiền giả cứ tự nhiên.
Ðức Thế Tôn bước vào trong gặp một tỳ kheo
trẻ đang ngồi, Ngài hỏi:
- Hiền giả, tôi muốn ở lại đây một đêm,
có phiền gì cho người chăng?
- Ồ thưa hiền giả, không có gì phiền.
Nhà thợ gốm rất rộng.
Thế Tôn bèn trải thảm cỏ, ngồi kiết già. Vị
Tỳ kheo cũng ngồi kiết già ngồi tọa thiền cho đến quá nửa đêm. Ðức Thế Tôn quán
sát cử chỉ của Tỳ kheo thanh niên ấy, lấy làm hài lòng. Ngài nghĩ: “Thanh niên
này có những cử chỉ tín thành. Ta hãy hỏi chuyện y”. Và Ngài mở lời:
- Này bạn, nhân danh ai mà bạn đã từ bỏ
gia đình, sống đời khất sĩ? Ai là thầy của bạn?
Tỳ kheo đáp:
- Ồ bạn ơi, có Sa môn dòng họ Thích Ca
đã từ bỏ ngai vàng để trở thành một ẩn sĩ. Thiên hạ đồn rằng Ngài đã đạt Chánh
Giác, được tôn xưng là Phật, Thế Tôn. Chính nhân danh con Người cao cả đó mà
tôi đã xuất gia. Bậc Thế Tôn ấy là Ðạo sư của tôi. Tôi thích sống như Người.
- Vậy con người cao cả đó, Ðức Phật,
Thế Tôn ấy, bây giờ ở đâu?
- Này bạn, có một đô thị ở phía bắc gọi
là Xá Vệ, chính nơi đó Ðức Thế Tôn đang ngự tòa.
- Bạn có khi nào bạn thấy đấng Thế Tôn
ấy chưa? Bạn sẽ nhận ra Ngài nếu gặp Ngài không?
- Bạn ơi! Làm sao tôi có được cái diễm
phúc ấy? Tôi chưa bao giờ trông thấy Ngài, chỉ mới nghe danh của Ngài thôi.
Nhưng chính vì Ngài mà tôi bỏ tục xuất gia, sống đời không nhà. Tôi chưa được
gặp Ngài thì làm sao mà nhận ra Ngài được?
Ðức Thế Tôn suy nghĩ: “Thanh niên này đã nhân
danh ta mà xuất gia. Vậy ta hãy thuyết pháp cho y”. Rồi Ngài dạy:
- Hỡi khất sĩ, tôi sẽ giảng pháp cho
bạn, hãy lắng nghe.
- Ðược bạn cứ nói đi.
Ðức Thế Tôn thuyết pháp cho vị Tỳ kheo ấy về
cấu tạo của con người gồm bốn đại, năm uẩn, trong đó không có cái gì là ta hay
của ta, toàn là những kết hợp vay mượn bên ngoài, biến chuyển luôn luôn để đi
đến hoại diệt. Do nhận thức chân chính ấy, khi mắt tiếp xúc với sắc, tai với âm
thanh, v.v... và những cảm thọ như dễ chịu, khó chịu... vị Tỳ kheo không tham
đắm, không ghét bỏ vì quan sát những cảm thọ ấy không phải là ta, không phải
của ta. Vị ấy sẽ có thái độ “huệ xã” (giải thoát nhờ trí huệ) không còn vọng
tưởng được sự bất động. Khi dứt được những vọng tưởng như vậy, vị Tỳ kheo ấy
được gọi là một ẩn sĩ tịch tịnh.
Ðức Thế Tôn dùng âm thanh vi diệu như tiếng
hót chim Ca Lăng Tần Già để thuyết pháp cho vị Tỳ kheo ấy, khích lệ ông, làm
cho ông hân hoan phấn khởi với những lời pháp của Ngài, như thể được nếm vị cam
lồ bất tử. Nghe xong thời pháp của Thế Tôn, vị Tỳ kheo biết ngay đấy chính là
đấng A La Hán Chánh Ðẳng Chánh Giác ông đang ngưỡng mộ tôn thờ. Ông sửa lại y,
quì gối chắp tay bạch:
- Bạch Thế Tôn, con thật ngu si đã gọi
Ngài là bạn. Xin Thế Tôn cho con sám hối tội lỗi.
- Này Tỳ kheo, vì ngươi không biết nên
không gọi là tội lỗi.
THÍCH NỮ TRÍ HẢI
“Ai lơ lửng như thuyền nan không bến
Ai hận đời không một chút tình thương
Ai thấy mình sao lạnh lẽo thê lương
Mơ kiếp sống đượm mùi hương giải thoát,
THÌ ÐÂY:
Mắt Thế Tôn nhìn xa ngoài muôn dặm
Lòng Thế Tôn như bể thẳm xanh màu
Tay hiền từ đốt đuốc giữa đêm thâu
Với pháp nhũ đầy vàng châu cảm mến”.